Player FMアプリでオフラインにしPlayer FMう!
Michael Learns To Rock - Ba thập niên gắn bó với khán giả châu Á
Manage episode 458801778 series 1455071
Michael Learns To Rock, ban nhạc Đan Mạch chiếm lĩnh trái tim hàng triệu người hâm mộ châu Á nhưng gần như không có tiếng tăm tại châu Âu hay Mỹ. Nhóm nhạc có kỳ tích mà nhiều nghệ sỹ phải nể phục: 1 tỷ lượt xem trên Youtube, 350 triệu nghe trên Spotify, 11 triệu đĩa hát tiêu thụ trên toàn cầu.
Thời kỳ thành lập
Ban nhạc Michael Learns to Rock (MLTR) thành lập vào năm 1988 tại thành phố Arhus, Đan Mạch. Lúc đó, ca sỹ chính Jasha Richer lên ý tưởng thành lập ban nhạc với các bạn học phổ thông và mời tay trống Kare Wanscher tham gia. Họ nhận thấy hạn chế của bộ đôi nên chiêu mộ thêm tay guitar, Mikkel Lentz và cây bass Soren Masden. Tại thời điểm đó, Jasha đã sở hữu một số bài hát anh tự sáng tác. Nhóm đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại Rock Grand Prix và festival âm nhạc mùa hè Aarhus Outdoor Festival tại thành phố quê hương. Cho dù lượng khán giả rất khiêm tốn, may mắn mỉm cười với họ khi tờ báo địa phương đánh giá là nhân tố tài năng mới. Đồng thời, nhóm lọt vào mắt xanh của thành viên Ban giám khảo, Jens Peter Andersen. Ông đã trở thành quản lý của nhóm để giúp nhóm có album phòng thu đầu tay năm 1991. Album cùng tên, lọt vào bảng xếp hạng Đan Mạch và ít lâu sau chiếm lĩnh thiện cảm của khán giả châu Á nhờ ca khúc The Actor (Diễn viên). Riêng tại Indonesia, album này tiêu thụ tới 25.000 bản và trở thành hiện tượng tại quốc gia Hồi giáo.
Thành công rực rỡ thập niên 90
2 năm sau, album phòng thu tiếp theo, Colours(Sắc màu) năm 1993, chính thức làm bệ phóng cho danh tiếng ban nhạc lan rộng khắp Châu Á. Ba ca khúc Sleeping Child, 25 Minutes, Out of the bluestrở thành thỏi nam châm khổng lồ với khán giả Châu Á. Các bản hit nói trên đều theo đuổi phong cách soft-rock, ballad (tình ca) theo khuôn mẫu bản nhạc pop truyền thống (2 khổ, 1 điệp khúc). Nội dung đề cập về tình yêu, sự đời chờ và mất mát trong tình yêu. Đặc biệt, nhóm sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh rất đơn giản, câu ngắn ngọn và giản lược. 25 Minutes (Muộn 25 phút) là ví dụ sinh động của câu chuyện tình tay ba. Họ kể một câu chuyện tình yêu giản dị có phần ngây ngô : yêu đơn phương và đợi chờ. Phải chăng vì thế gu kể chuyện giản đơn này giúp họ lại gần văn hóa khán giả châu Á nhiều hơn ?
I find her standing in front of the church, The only place in town where I didn't search, She looks so happy in her wedding dress, But she's crying while she's saying this, Boy I missed your kisses all the time but this is Twenty five minutes too late.
Tôi thấy cô ấy đứng trước nhà thờ, Nơi duy nhất trong thị trấn tôi đã không tìm kiếm, Cô ấy trông hạnh phúc trong chiếc váy cưới, Nhưng cô ấy khóc khi nói điều này : Em đã lỡ nụ hôn của anh nhưng lần này anh đã muộn quá 25 phút.
Âm nhạc pop khuôn mẫu không theo xu thế
Khác với các ban nhạc cùng thời, MLTR không chạy theo xu thế và cũng không đổi mới bản thân. Họ trung thành với khuôn mẫu soft-rock, pop ballad suốt hơn 30 năm tồn tại. Bộ tứ Đan Mạch chịu ảnh hưởng lớn từ Elton John, The Beatles, Rolling stones, ABBA, Bee Gees. Các nghệ sỹ tên tuổi đều chú trọng nội dung, chất lượng âm nhạc và ca từ. Vì vậy, phần ca từ của MLTR rất chau chuốt và có câu chuyện rõ ràng. Có ý kiến cho rằng nhóm chịu ảnh hưởng từ Michael Jackson nhưng họ luôn phủ nhận điều đó. Tuy nhiên, nội dung bài hát không có tính ẩn dụ, triết lý sâu sắc như các nghệ sỹ họ chịu ảnh hưởng.
Trưởng nhóm Jascha chủ yếu sáng tác trên piano sau đó tay guitar Mikkel sẽ phát triển thêm, chỉnh sửa để cho ra sản phẩm cuối cùng. Theo Mikkel, âm nhạc MLTR không theo thể loại nào ngoại trừ âm thanh pop rất kinh điển. Phần lời chính (verse) gồm 1 hoặc 2 khổ thơ, sau đó phần điệp khúc có cao trào mạnh mẽ về giai điệu cũng như nhịp điệu. Các bản hit như That’s why you go away, Paint my love, Someday đều chế biến theo công thức này. Hơn thế, nhóm còn chăm chút đoạn solo nhạc cụ chủ yếu guitar hay keyboards vào phần chuyển bài. Chủ đích này khiến cho bài hát mềm mại và êm dịu, nhưng không hợp gu khán giả Anh, Mỹ do bố cục kém gọn gàng, thiếu cao trào mãnh liệt.
Tình yêu của khán giả Châu Á
Một số tạp chí âm nhạc đã tìm hiểu nguyên nhân MLTR hâm mộ ở Châu Á đến vậy. Một trong số câu trả lời gây ngạc nhiên nhất: Karaoke. Văn hóa karaoke rất thịnh hành tại các nước Đông Nam Á như Philipinnes, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Các ca khúc MTLR làm mưa làm gió theo phong trào karaoke không có gì lạ lẫm. Giai điệu dễ nghe, ca từ đơn giản, nên người hâm mộ dễ dàng thấm nhuần câu chuyện tình yêu. Phần lớn nhạc beat các bài hát tương đối giống nhau nên thể hiện qua karaoke rất thuận lợi.
I’m not an actor, I’m not a star, And I don’t even have my own car, But I’m hoping so much you’ll stay, That you will love me anyway.
Anh không phải là diễn viên, Anh không phải là ngôi sao , Anh không có xe hơi riêng, Nhưng anh hy vọng rằng em sẽ ở bên anh, Và bất chấp thế, em sẽ yêu anh.
Ngoài ra, Indonesia, đất nước đông dân thứ 4 thế giới, có lẽ là nơi khởi nguồn cho cơn sốt MLTR lan rộng châu Á. Bản hit The Actor (Diễn viên) leo lên hạng 1 tại Indonesia nhờ người quản lý hãng Aquarius Musikindo, Agus Syarif Hidaya. Trong khi các công ty đối thủ phát hành album nhạc của siêu sao Bon Jovi, Madonna, hãng đĩa này quyết định tung ra sản phẩm mới lạ MLTR. Ban nhạc bắt đầu lưu diễn Châu Á từ năm 1994 trở thành ngôi sao sáng chói tại lục địa này, từ Cam Bốt cho tới nơi xa xôi như Papua New Guinea. Âm nhạc dễ nghe kết hợp ca từ ủy mị, hơi buồn tẻ, nhân vật trong câu chuyện của họ ngây ngô, chất phác. Sự cộng hưởng các yếu tố này có lẽ chiếm lĩnh thiện cảm với khán giả Châu Á nhờ sự gần gũi văn hóa.
Ban nhạc đã trải qua nhiều chông gai để tới miền đất hứa. Họ từng bị từ chối hợp đồng ghi âm tại Anh do ca từ quá đơn giản. Họ giành hợp đồng tại Mỹ nhưng hãng đĩa lại sớm phá sản. Album thứ hai không được đón nhận tại Đan Mạch do trào lưu pop/soft-rock thoái trào. Khán giả Châu Á trở thành “thiên thần hộ mệnh” cho nhóm nhạc với 10 album phòng thu. Hiện tại, nhóm chỉ còn 3 thành viên, do tay bass Søren Madsen rời nhóm theo đuổi sự nghiệp solo. Ban nhạc thổ lộ họ thực sự trúng độc đắc tại Châu Á. Tình yêu từ khán giả Châu Á mang đến cho họ cuộc sống sung túc tại Đan Mạch, một quốc gia vô cùng đắt đỏ. Quả thực, âm nhạc của MLTR còn đắt hơn thế nhờ tích lũy giá trị hơn ba thập kỷ !
(Theo New York Times, Wikipedia, All Music)
54 つのエピソード
Manage episode 458801778 series 1455071
Michael Learns To Rock, ban nhạc Đan Mạch chiếm lĩnh trái tim hàng triệu người hâm mộ châu Á nhưng gần như không có tiếng tăm tại châu Âu hay Mỹ. Nhóm nhạc có kỳ tích mà nhiều nghệ sỹ phải nể phục: 1 tỷ lượt xem trên Youtube, 350 triệu nghe trên Spotify, 11 triệu đĩa hát tiêu thụ trên toàn cầu.
Thời kỳ thành lập
Ban nhạc Michael Learns to Rock (MLTR) thành lập vào năm 1988 tại thành phố Arhus, Đan Mạch. Lúc đó, ca sỹ chính Jasha Richer lên ý tưởng thành lập ban nhạc với các bạn học phổ thông và mời tay trống Kare Wanscher tham gia. Họ nhận thấy hạn chế của bộ đôi nên chiêu mộ thêm tay guitar, Mikkel Lentz và cây bass Soren Masden. Tại thời điểm đó, Jasha đã sở hữu một số bài hát anh tự sáng tác. Nhóm đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại Rock Grand Prix và festival âm nhạc mùa hè Aarhus Outdoor Festival tại thành phố quê hương. Cho dù lượng khán giả rất khiêm tốn, may mắn mỉm cười với họ khi tờ báo địa phương đánh giá là nhân tố tài năng mới. Đồng thời, nhóm lọt vào mắt xanh của thành viên Ban giám khảo, Jens Peter Andersen. Ông đã trở thành quản lý của nhóm để giúp nhóm có album phòng thu đầu tay năm 1991. Album cùng tên, lọt vào bảng xếp hạng Đan Mạch và ít lâu sau chiếm lĩnh thiện cảm của khán giả châu Á nhờ ca khúc The Actor (Diễn viên). Riêng tại Indonesia, album này tiêu thụ tới 25.000 bản và trở thành hiện tượng tại quốc gia Hồi giáo.
Thành công rực rỡ thập niên 90
2 năm sau, album phòng thu tiếp theo, Colours(Sắc màu) năm 1993, chính thức làm bệ phóng cho danh tiếng ban nhạc lan rộng khắp Châu Á. Ba ca khúc Sleeping Child, 25 Minutes, Out of the bluestrở thành thỏi nam châm khổng lồ với khán giả Châu Á. Các bản hit nói trên đều theo đuổi phong cách soft-rock, ballad (tình ca) theo khuôn mẫu bản nhạc pop truyền thống (2 khổ, 1 điệp khúc). Nội dung đề cập về tình yêu, sự đời chờ và mất mát trong tình yêu. Đặc biệt, nhóm sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh rất đơn giản, câu ngắn ngọn và giản lược. 25 Minutes (Muộn 25 phút) là ví dụ sinh động của câu chuyện tình tay ba. Họ kể một câu chuyện tình yêu giản dị có phần ngây ngô : yêu đơn phương và đợi chờ. Phải chăng vì thế gu kể chuyện giản đơn này giúp họ lại gần văn hóa khán giả châu Á nhiều hơn ?
I find her standing in front of the church, The only place in town where I didn't search, She looks so happy in her wedding dress, But she's crying while she's saying this, Boy I missed your kisses all the time but this is Twenty five minutes too late.
Tôi thấy cô ấy đứng trước nhà thờ, Nơi duy nhất trong thị trấn tôi đã không tìm kiếm, Cô ấy trông hạnh phúc trong chiếc váy cưới, Nhưng cô ấy khóc khi nói điều này : Em đã lỡ nụ hôn của anh nhưng lần này anh đã muộn quá 25 phút.
Âm nhạc pop khuôn mẫu không theo xu thế
Khác với các ban nhạc cùng thời, MLTR không chạy theo xu thế và cũng không đổi mới bản thân. Họ trung thành với khuôn mẫu soft-rock, pop ballad suốt hơn 30 năm tồn tại. Bộ tứ Đan Mạch chịu ảnh hưởng lớn từ Elton John, The Beatles, Rolling stones, ABBA, Bee Gees. Các nghệ sỹ tên tuổi đều chú trọng nội dung, chất lượng âm nhạc và ca từ. Vì vậy, phần ca từ của MLTR rất chau chuốt và có câu chuyện rõ ràng. Có ý kiến cho rằng nhóm chịu ảnh hưởng từ Michael Jackson nhưng họ luôn phủ nhận điều đó. Tuy nhiên, nội dung bài hát không có tính ẩn dụ, triết lý sâu sắc như các nghệ sỹ họ chịu ảnh hưởng.
Trưởng nhóm Jascha chủ yếu sáng tác trên piano sau đó tay guitar Mikkel sẽ phát triển thêm, chỉnh sửa để cho ra sản phẩm cuối cùng. Theo Mikkel, âm nhạc MLTR không theo thể loại nào ngoại trừ âm thanh pop rất kinh điển. Phần lời chính (verse) gồm 1 hoặc 2 khổ thơ, sau đó phần điệp khúc có cao trào mạnh mẽ về giai điệu cũng như nhịp điệu. Các bản hit như That’s why you go away, Paint my love, Someday đều chế biến theo công thức này. Hơn thế, nhóm còn chăm chút đoạn solo nhạc cụ chủ yếu guitar hay keyboards vào phần chuyển bài. Chủ đích này khiến cho bài hát mềm mại và êm dịu, nhưng không hợp gu khán giả Anh, Mỹ do bố cục kém gọn gàng, thiếu cao trào mãnh liệt.
Tình yêu của khán giả Châu Á
Một số tạp chí âm nhạc đã tìm hiểu nguyên nhân MLTR hâm mộ ở Châu Á đến vậy. Một trong số câu trả lời gây ngạc nhiên nhất: Karaoke. Văn hóa karaoke rất thịnh hành tại các nước Đông Nam Á như Philipinnes, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Các ca khúc MTLR làm mưa làm gió theo phong trào karaoke không có gì lạ lẫm. Giai điệu dễ nghe, ca từ đơn giản, nên người hâm mộ dễ dàng thấm nhuần câu chuyện tình yêu. Phần lớn nhạc beat các bài hát tương đối giống nhau nên thể hiện qua karaoke rất thuận lợi.
I’m not an actor, I’m not a star, And I don’t even have my own car, But I’m hoping so much you’ll stay, That you will love me anyway.
Anh không phải là diễn viên, Anh không phải là ngôi sao , Anh không có xe hơi riêng, Nhưng anh hy vọng rằng em sẽ ở bên anh, Và bất chấp thế, em sẽ yêu anh.
Ngoài ra, Indonesia, đất nước đông dân thứ 4 thế giới, có lẽ là nơi khởi nguồn cho cơn sốt MLTR lan rộng châu Á. Bản hit The Actor (Diễn viên) leo lên hạng 1 tại Indonesia nhờ người quản lý hãng Aquarius Musikindo, Agus Syarif Hidaya. Trong khi các công ty đối thủ phát hành album nhạc của siêu sao Bon Jovi, Madonna, hãng đĩa này quyết định tung ra sản phẩm mới lạ MLTR. Ban nhạc bắt đầu lưu diễn Châu Á từ năm 1994 trở thành ngôi sao sáng chói tại lục địa này, từ Cam Bốt cho tới nơi xa xôi như Papua New Guinea. Âm nhạc dễ nghe kết hợp ca từ ủy mị, hơi buồn tẻ, nhân vật trong câu chuyện của họ ngây ngô, chất phác. Sự cộng hưởng các yếu tố này có lẽ chiếm lĩnh thiện cảm với khán giả Châu Á nhờ sự gần gũi văn hóa.
Ban nhạc đã trải qua nhiều chông gai để tới miền đất hứa. Họ từng bị từ chối hợp đồng ghi âm tại Anh do ca từ quá đơn giản. Họ giành hợp đồng tại Mỹ nhưng hãng đĩa lại sớm phá sản. Album thứ hai không được đón nhận tại Đan Mạch do trào lưu pop/soft-rock thoái trào. Khán giả Châu Á trở thành “thiên thần hộ mệnh” cho nhóm nhạc với 10 album phòng thu. Hiện tại, nhóm chỉ còn 3 thành viên, do tay bass Søren Madsen rời nhóm theo đuổi sự nghiệp solo. Ban nhạc thổ lộ họ thực sự trúng độc đắc tại Châu Á. Tình yêu từ khán giả Châu Á mang đến cho họ cuộc sống sung túc tại Đan Mạch, một quốc gia vô cùng đắt đỏ. Quả thực, âm nhạc của MLTR còn đắt hơn thế nhờ tích lũy giá trị hơn ba thập kỷ !
(Theo New York Times, Wikipedia, All Music)
54 つのエピソード
すべてのエピソード
×プレーヤーFMへようこそ!
Player FMは今からすぐに楽しめるために高品質のポッドキャストをウェブでスキャンしています。 これは最高のポッドキャストアプリで、Android、iPhone、そしてWebで動作します。 全ての端末で購読を同期するためにサインアップしてください。